Những cái tên, những dáng vẻ, những nỗi niềm, tâm trạng của người lính hiện lên trong truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 không chỉ cho thấy sự vận động của một kiểu hình tượng văn học trong sự vận động của bối cảnh xã hội, mà còn phản ánh những biến đổi sâu
-1963, "Tuyển Tập Truyện Ngắn Việt Nam," nhà xuất bản Văn Hữu Á Châu. Một năm sau tuyển tập truyện ngắn thứ hai xuất hiện, lại chỉ có 12 tác giả và 12 truyện, lại dùng sáng tác của vài nhà văn tiền chiến như Nguyễn Tuân, Khái Hưng, Nam Cao.
Lydia Davis sáng tác năm truyện rất ngắn này do cảm hứng từ những lá thư nhà văn Flaubert gởi cho bà Louise Colet - người tình của ông - trong thời gian ông viết tác phẩm Madame Bovary [1850-1856]. và trên quy mô lớn lao nhờ chiến thắng của Cộng Sản Việt Nam qua biến cố 30
Tên truyện: 70 ấm áp sủng ái tiểu trí thức Tên gốc: [穿书] 七零暖宠小知青 Hán Việt: [Xuyên thư] Thất linh noãn sủng tiểu tri thanh Tác giả: Thiếu Âm Thư Số chương: 91 chương + 4 phiên ngoại Thể loại: Nguyên sang, Ngôn tình, Cận đại, Hiện đại, HE, Tình cảm, Xuyên việt, Xuyên thư, Làm ruộng, Nữ phụ, Xuyên
Nguyễn Thị Phương Thảo (2016), "Cảm hứng nhân bản trong truyện ngắn Việt Nam viết về chiến tranh sau 1975", Tạp chí Văn nghệ Quân đội (839), tr. 91 - 96. [4]. Nguyễn Thị Phương Thảo (2016), "Yếu tố giấc mơ và kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam đương đại viết về chiến tranh", Tạp chí Lí luận Phê bình Văn học, nghệ thuật (44), tr. 60 - 64. [5].
Thư viện trường đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh: Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết về chiến tranh giai đoạn sau 1975: Luận văn Thạc sĩ Văn học chuyên ngành Văn học Việt Nam Item Infomation ABSTRACTS VIEWS 58 VIEWS & DOWNLOAD 4 Files in This Item: TRAN THI MAI LAN-YEU TO KI AO.pdf Restricted Access Size : 922,58 kB
nmQR6fx. 1. Đặc trưng thể loại và cảm hứng sáng tác Giá trị của một truyện ngắn chính là sức dung chứa những ý tưởng lớn trong một “kích cỡ nhỏ” của tác phẩm. Một trong những tiền đề quan trọng làm nên thành tựu của văn học Việt Nam đó là hiện thực cách mạng khơi nguồn cho sự sáng tạo và là cảm hứng chủ đạo của nhiều tác phẩm văn chương. Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã phản ánh rất rõ sự thay đổi của hiện thực cuộc sống, rõ nét nhất trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… Nhận thức được điều này, khi tìm hiểu, tiếp cận truyện ngắn Việt Nam từ sau năm 1975, cần chú ý đến cảm hứng sáng tác của từng tác giả nói riêng và cảm hứng của thời đại nói chung. Khơi nguồn cảm hứng từ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là hiện thực cuộc sống được phản ánh qua cái nhìn của người nghệ sĩ. Đằng sau cái bức tranh bình minh trên biển đẹp tuyệt đích, hoàn mĩ ấy là sự thật tồi tệ, phũ phàng – cuộc sống của gia đình hàng chài một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu giải phóng miền Nam nhưng lại không thể nào giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh. Còn trong truyện ngắn Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến là hiện thực cuộc sống thông qua nhân vật cô Hiền. Hình tượng ấy được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Do vậy, cảm hứng chính của nhà văn trong tác phẩm này là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai, như tác giả đã khẳng định “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”. 2. Về không gian, thời gian nghệ thuật * Không gian nghệ thuật Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, văn xuôi thường viết về vấn đề đời tư, thế sự; không gian ở đó là không gian sinh hoạt đời thường. Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 cũng nằm trong dòng chảy chung của văn học nước nhà, thể hiện rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải. Họ viết về cuộc sống thành thị, nông thôn, về số phận con người trong thời đại mới. Vì thế ta thường thấy xuất hiện những không gian trong sinh hoạt đời thường. Đó là nơi để nhân vật hoạt động và tự thể hiện mình trong cuộc sống thường ngày. Cái không gian chật chội của một gia đình có năm đứa con trên một con thuyền lênh đênh trên biển những lúc sóng to gió lớn; cũng có lúc khổ đau đến tận cùng vì người chồng vũ phu “cứ ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”. Thế nhưng người vợ ấy vẫn không chịu bỏ chồng theo đề nghị của người làm công lí vì nhiều lí do mà bà đưa ra hết sức thuyết phục. Nhưng xét đến cùng, trong không gian ấy con người bộc lộ đến cùng bản chất nhiều mặt tốt – xấu, thiện – ác, cao cả – thấp hèn, cách đối nhân xử thế của mình. Qua đó tác giả thể hiện cái nhìn về những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh. * Thời gian nghệ thuật Đọc truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, chúng ta dễ dàng nhận ra thời gian nghệ thuật ở trong tác phẩm là thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó đan quyện vào nhau, gắn kết với nhau để con người thể hiện mình, từ đó làm nên giá trị, ý nghĩa của tác phẩm. Điều đó thể hiện rõ nét qua hình ảnh cô Hiền – một người Hà Nội trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải luôn lặng lẽ giữ lấy nét hào hoa, thanh lịch của văn hoá Hà Nội lại được đặt giữa bối cảnh đã có sự đối lập giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội hôm nay. Có thể nói rằng, các tác giả truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 đã rất thành công trong việc sử dụng thời gian như một phương tiện hữu hiệu để tạo nên hiệu quả nghệ thuật nhất định. Do vậy, tìm hiểu yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm không những là để khám phá tác phẩm mà còn giúp học sinh thấy rõ được tài nghệ của nhà văn; có nhận thức được sự sâu sắc, tinh tế về nội dung của tác phẩm, thì việc tiếp nhận tác phẩm mới trở nên toàn vẹn hơn. 3. Ngôn ngữ, giọng điệu * Ngôn ngữ Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 thể hiện hết sức phong phú, đa dạng vừa gần gũi, bình dị như cuộc sống hàng ngày lại vừa đầy suy tư, sâu lắng. Truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải và Chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn Minh Châu là minh chứng hùng hồn cho đặc điểm đó. Sự lí giải của người đàn bà hàng chài trước tòa án huyện “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi cho con đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!… vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Phải nói rằng, cái ngôn ngữ mà người đàn bà hàng chài đưa ra để giải thích lí do đối với chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng; dù không hoa mĩ, cầu kì, sắc sảo nhưng nó chứa đầy sức thuyết phục. Vì đó là ngôn ngữ của người đàn bà hàng chài, nó bình dị gần với cuộc sống đời thường nhưng mang đậm triết lí sâu sắc. Bởi đó là thực tế cuộc sống mà chỉ có họ mới là người nếm trải, lại thấm thía và thấu hiểu mà không ai có thể làm thay được. * Giọng điệu Sau năm 1975, khi chiến tranh đi qua, nhịp sống đời thường trở lại với tất cả những biểu hiện phong phú của đời sống ích kỉ, vị tha, cao thượng, thấp hèn, phàm tục…Văn xuôi từ chỗ “phản ánh hiện thực” đến chỗ “nghiền ngẫm hiện thực”, đi vào tìm hiểu “toàn bộ chiều sâu của tâm hồn con người”.Vì thế văn chương không thể chỉ có cảm xúc ngợi ca mà còn có đối thoại, đó chính là biểu hiện của mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và độc giả. Thời kì này, nhà văn nhìn cuộc sống qua lăng kính đời tư, thế sự, quan tâm đến con người ở tư cách cá nhân. Từ giọng điệu trang trọng sử thi, sắc bén họ chuyển dần sang giọng điệu tâm tình, gần gũi, giản dị của đời thường. Con người không chỉ là đối tượng để ngợi ca mà còn là tiêu điểm để nhà văn khai thác bề sâu tâm hồn. Nếu như trước 1975, nhà văn ngợi ca những con người, những sự kiện mang tầm vóc sử thi thì sau 1975, tác phẩm truyện ngắn tập trung ngợi ca những con người bình dị, hồn nhiên thể hiện niềm tin của tác giả vào con người và cuộc đời. Việc ngợi ca đức hi sinh cao cả của người phụ nữ làm nghề chài lưới trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho thấy thái độ trân trọng, thấu hiểu và cảm thông của nhà văn đối với nhân vật mình. Hay trong truyện ngắn Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã cho thấy trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử nhân vật cô Hiền vẫn mãi là “hạt bụi vàng” giữa đất kinh kì “chói sáng những ánh vàng”. 4. Cốt truyện, kết cấu của tác phẩm * Cốt truyện Khi tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, để giúp HS nắm được sự phát triển của cốt truyện, GV có thể yêu cầu HS kể lại tác phẩm sau khi đã đọc. Khi kể, các em có thể trình bày một cách chi tiết hoặc sơ lược, nhưng miễn là giới thiệu được câu chuyện xoay quanh phát hiện của nghệ sĩ Phùng và cuộc sống của gia đình hàng chài. Qua đó, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Nắm được cốt truyện tức là giúp HS củng cố được tri thức văn học đồng thời trau dồi năng lực tư duy, ngôn ngữ, phát triển năng khiếu thẩm mĩ cho HS. Điều quan trọng để nắm vững cốt truyện trong tác phẩm là phân tích các chặng đường phát triển chủ yếu của đó sẽ tạo ở các em một ấn tượng hoàn chỉnh về hình tượng tự sự ở trong tác phẩm. Nắm vững cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hướng dẫn HS tìm hiểu những yếu tố về nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ở trường phổ thông. * Kết cấu Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã không chịu đầu hàng trước hiện thực phức tạp, đa chiều của cuộc sống; đã đem lại nhiều kiểu kết cấu hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt. Đó là kiểu kết cấu tâm lí, giúp nhà văn có điều kiện thâm nhập vào thế giới bên trong của tâm hồn con người mà không cần nhiều lời. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa và những sinh hoạt quen thuộc dường như đã trở thành “nếp” trong gia đình cô Hiền trong Một người Hà Nội; tưởng chừng như rất đơn giản nhưng trong đó chất chứa bao nỗi niềm trăn trở của nhà văn về con người và cuộc sống. Dường như tác giả muốn trao quyền kết luận cho người đọc qua việc sử dụng lối kết cấu độc đáo này. Hay ở phần kết tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, hình ảnh người đàn bà “bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc cảm nhận được rằng “người đàn bà” hòa lẫn trong đám đông ấy phải chăng còn bao số phận khác như người đàn bà hàng chài này chăng? Cuộc đời họ rồi sẽ đi về đâu… Kết cấu đó cũng gợi mở nhiều vấn đề, tạo ra nhiều khoảng trống để người đọc cảm nhận và giải mã khoảng trống đó. 5. Nhân vật trung tâm Khi tìm hiểu nhân vật trung tâm trong truyện ngắn, cần dựa vào các yếu tố lai lịch, ngoại hình, gốc gác, ngôn ngữ, nội tâm, cách ứng xử, cử chỉ, hành động của nhân vật. Phân tích, tìm hiểu nhân vật cô Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội đã cho thấy Điều mà tác giả quan tâm và tập trung thể hiện ở nhân vật cô Hiền chính là vẻ đẹp của một lối sống, nhân cách người Hà Nội, “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”, như chính lời của người kể chuyện nói về nhân vật. Truyện đưa ra nhiều chi tiết sự việc về nhân vật cô Hiền, nhưng chung quy lại vẫn là ở hai mối quan hệ chính gia đình và xã hội, với cách mạng. Với tư cách là người mẹ, người chủ gia đình, hay một công dân, ở nhân vật cô Hiền đều toát lên một vẻ đẹp của nhân cách, của lối sống văn hoá, của một bản lĩnh. Đó là con người luôn giữ vững những quan niệm và cách sống của mình, không bị biến suy theo những đổi thay của thời cuộc, lại tỉnh táo sáng suốt, không xu thời nhưng cũng không để bị rơi vào tình thế của kẻ lạc thời. Sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, giàu có; thời trẻ cô Hiền được cha mẹ cho phép mở một xa lông văn chương, nơi gặp gỡ của nhiều văn nhân nghệ sĩ có tiếng của đất Hà thành. Như thế, cô thuộc thế hệ tân tiến trong lớp thanh niên thành thị thời trước cách mạng. Nhưng việc cô lấy chồng lại chọn “một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Điều đó thể hiện rõ sự lựa chọn tỉnh táo và những quan niệm nghiêm túc của cô về hôn nhân và gia đình. Nhưng việc dạy dỗ con cái của cô là nhằm hướng tới cái quan trọng nhất trong nhân cách một con người… 6. Tình huống truyện Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuộc loại tình huống cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Điều đó thể hiện rõ nét thông qua quá trình nhận thức khá quanh co và được “vỡ ra” từ hiện thực cuộc sống của nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu. Để có được một tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng tới một vùng biển vốn là chiến trường cũ của anh. Và mất mấy ngày “săn tìm”, anh mới “chộp” được một tấm hình như ý. Đó là một sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ không phải khi nào cũng có được. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng trở nên bối rối và “trong tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy mình vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng bước ra từ chiếc thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ đã đánh lại cha. Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ, như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, đó mới là phần khởi đầu của truyện cũng như của tình huống. Cuộc tiếp xúc giữa chánh án Đẩu và người đàn bà hàng chài đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Theo lời mời của chánh án Đẩu – người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Nhưng trước toà án, chị ta đã từ chối quyết liệt với những lí do không khỏi Phùng và Đẩu “đau đầu” suy nghĩ Đó là vì gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng của những đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động, phong ba. Hơn thế nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì chúng nhiều hơn là cho bản thân chị. Và quan trọng hơn là trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng, con cái sống hoà thuận, vui vẻ… Như vậy, tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa giống như một vòng tròn đồng tâm mà người nhiếp ảnh Phùng cũng như chánh án Đẩu đều phải trải qua một quá trình nhận thức để đạt đến trạng thái “đốn ngộ” cho tâm hồn. Nguồn Dẫn theo bài viết HƯỚNG DẪN HỌC SINH VẬN DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 của Chu Đình Kiên, Trần Thị Hương
Ngày đăng 19/03/2020, 2305 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI Chun ngành Văn học Việt Nam Mã số 62 22 34 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS TS LÊ VĂN LÂN PGS TS HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội - 2016 LỜI CẢM ƠN Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS TS Lê Văn Lân PGS TS Hà Văn Đức Khoa Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngƣời thầy tận tình hƣớng dẫn tơi trình nghiên cứu thực luận án Xin đƣợc gửi lời cảm ơn trân trọng tới thầy giáo đào tạo, dìu dắt tơi nhiều năm qua để tơi có đƣợc tri thức phƣơng pháp nghiên cứu khoa học Tôi xin cảm ơn thầy cô giáo đồng nghiệp Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn luôn động viên, tạo điều kiện cho tơi q trình học tập, cơng tác hoàn thành luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hồng LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan rằng - Luận án Tiến sĩ kết nghiên cứu riêng dƣới hƣớng dẫn tập thể hƣớng dẫn khoa học, chƣa đƣợc cơng bố cơng trình nghiên cứu ngƣời khác - Kết nghiên cứu nhà nghiên cứu khác đƣợc tiếp thu cách trung thực, cẩn trọng luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hoàng MỞ ĐẦU Lý chọn đề tài “Thể loại văn học chất phản ánh khuynh hƣớng phát triển vững bền, vĩnh văn học, thể loại văn học tồn để gìn giữ, đổi thƣờng xuyên khuynh hƣớng Do mà thể loại văn học ln vừa mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định” [150, Trong trình sáng tạo, nhà văn kiến tạo tác phẩm thuộc thể loại định, mặt bảo lƣu đặc trƣng cốt yếu thể loại, mặt khác khơng ngừng tìm tòi, cách tân để tác phẩm có đƣợc diện mạo, sức sống riêng, nhờ góp phần làm nên biến đổi, phát triển thể loại Việc quan sát vận động thể loại văn học công việc cần thiết, có ý nghĩa quan trọng nghiên cứu lịch sử văn học nói chung Văn học Việt Nam đầu kỷ XX thực công đại hóa mau lẹ phức tạp để tiến bƣớc dài từ phạm trù trung đại sang phạm trù đại, từ quỹ đạo vùng Đông Á gia nhập vào quỹ đạo toàn giới Một biểu rõ nét cơng đại hóa phá vỡ mơ hình thể loại truyền thống, hình thành cấu trúc thể loại với tự sự, trữ tình kịch Vận động dòng chảy chung văn học, truyện ngắn đại đƣợc hình thành qua giai đoạn 1932 – 1945, 1945 – 1975 đạt đƣợc nhiều thành tựu, đánh dấu bƣớc quan trọng thể loại Năm 1975, chiến tranh kết thúc, miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, sống trở với quỹ đạo bình thƣờng Hồn thành sứ mệnh phục vụ kháng chiến, văn học từ năm 1975 đến vừa kế thừa thành tựu giai đoạn trƣớc, vừa vận động phát triển với nguyên tắc, khuynh hƣớng, đặc điểm Nếu nhƣ thơ ca phải đợi đến sau năm 1986 thực có đƣợc bƣớc ngoặt quan trọng cho q trình đổi văn xi, q trình đƣợc khởi tạo sau năm 1975 Với cách nhìn mẻ ngƣời thực, nhiều tác giả văn xuôi bƣớc đổi phƣơng thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật đặc điểm thi pháp tác phẩm, sớm phải kể tới tiểu thuyết Lê Lựu Thời xa vắng, Ma Văn Kháng Mưa mùa hạ, Mùa rụng vườn, Nguyễn Mạnh Tuấn Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Nguyễn Khải Cha Con, và…, Gặp gỡ cuối năm hay truyện ngắn Thái Bá Lợi Hai người trở lại trung đoàn, Xuân Thiều Gió từ miền cát, Nguyễn Minh Châu Người đàn bà chuyến tàu tốc hành, Bến quê… Cuộc chiến tranh vừa qua dân tộc vấn đề sự, đời tƣ, số phận ngƣời điều kiện lịch sử đƣợc tƣ duy, nhận thức cách mẻ Có thể nói, khơng đợi đến cơng đổi tồn diện đất nƣớc đƣợc Đảng khởi xƣớng vào cuối năm 1986, nhu cầu đổi tƣ thể nghiệm đổi đƣợc nhà văn thực hoá mạnh mẽ văn chƣơng chiến tranh kết thúc, đất nƣớc bƣớc vào giai đoạn hòa bình, dựng xây Những biến chuyển phác thảo nên thời kỳ phát triển cho văn học thời kỳ đƣơng đại Trong tranh chung đó, thành tựu đổi truyện ngắn đƣợc xác lập sớm sơi Có thể nói thể loại tự cỡ nhỏ động, linh hoạt chứng tỏ nhạy bén nhƣ ƣu bƣớc chuyển định hình văn học Việt Nam bốn mƣơi năm qua Thực tế đặt nhiệm vụ tìm hiểu diện mạo lịch sử truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn thể loại Đã có cơng trình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 mảng vấn đề, khía cạnh khác nhau, chẳng hạn nghiên cứu tác giả nhóm tác giả truyện ngắn tiêu biểu; phận truyện ngắn đƣợc đăng tải số tờ báo, tạp chí; đặc điểm truyện ngắn vùng miền, chặng đƣờng phát triển cụ thể Theo quan sát chúng tôi, tiểu thuyết thơ đƣợc quan tâm nghiên cứu cách bao quát chi tiết nhiều công trình khoa học lý luận nhƣ lịch sử thể loại, đến thiếu vắng cơng trình soi rọi cách có hệ thống truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc độ thể loại để thấy đƣợc vận động biến đổi thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc, nhƣ tƣơng quan với thể loại khác giai đoạn – tức đƣợc đặc điểm thể loại xét từ hai chiều lịch đại đồng đại Xuất phát từ tiền đề lý luận thực tiễn nhƣ trên, luận án lựa chọn đề tài nghiên cứu Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Chúng xác định đối tƣợng nghiên cứu luận án đặc điểm cho thấy vận động đổi truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 xét phƣơng diện thể loại, đặc điểm dung lƣợng, tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ giọng điệu Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nghiên cứu, luận án khảo sát nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến Tuy nhiên, đứng trƣớc diện vô đa dạng phong phú truyện ngắn văn học Việt Nam giai đoạn này, với số lƣợng lớn tác giả, tác phẩm nhiều kiểu loại, nhiều khuynh hƣớng, phong cách, tập trung nghiên cứu nhiều vào tác phẩm thể rõ vận động, đổi thể loại, phù hợp với hƣớng tiếp cận chúng tơi Đó tác phẩm đạt giải thƣởng văn học, tác phẩm công bố tạo nên dƣ luận sôi nổi, tác phẩm nhà văn định hình phong cách, đƣợc biết đến rộng rãi công chúng văn học, đƣợc giáo trình, viết có uy tín văn học Việt Nam giai đoạn đánh giá tiêu biểu Với giới hạn quy mô khả bao quát tƣ liệu, sáng tác truyện ngắn tiếng Việt nƣớc giai đoạn không thuộc phạm vi nghiên cứu luận án Do đối tƣợng nghiên cứu tiếp tục vận động phát triển, xác định mốc thời gian sau cho tác phẩm phạm vi khảo sát luận án truyện ngắn đƣợc xuất năm 2014 Chúng tơi hy vọng thơng qua đó, thấy đƣợc, tất cả, đặc điểm bật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc độ thể loại Bên cạnh đó, số truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn phát triển trƣớc số tác phẩm đồng đại thuộc thể loại khác đƣợc liên hệ, đối sánh tới cần thiết Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát thành tựu nhƣ điểm dừng, hạn chế thể loại bối cảnh chung văn học Việt Nam đƣơng đại Nhiệm vụ nghiên cứu Trên sở khảo sát đối tƣợng nghiên cứu, luận án tìm hiểu vận động mặt thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phƣơng diện co giãn dung lƣợng tác phẩm, xâm nhập giao thoa phƣơng thức tự sự, vận động kiểu tình chính, đa dạng hóa hình thức kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật ngôn ngữ Luận án đặt truyện ngắn Việt Nam sau 1975 tiến trình vận động phát triển thể loại truyện ngắn Việt Nam, đƣợc tính kế thừa biến thiên, cách tân thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc Từ đó, đƣa số đánh giá thành tựu lý giải điểm dừng, giới hạn truyện ngắn bối cảnh chung thể loại văn học đƣơng đại Việt Nam Đạt đƣợc mục đích trên, luận án đƣa nhìn tổng quan truyện ngắn văn học Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ thể loại, trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu văn xi nói riêng, văn học Việt Nam nói chung Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án áp dụng thi pháp học tự học vào việc phân tích, tìm hiểu đặc trƣng truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Với ý nghĩa cơng trình nghiên cứu giai đoạn phát triển thể loại, trƣớc hết, vận dụng phƣơng pháp thực chứng lịch sử để mô tả, khái quát tình hình vận động phát triển truyện ngắn phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại Từ đó, luận án vừa tổng kết đối tƣợng, vừa đƣa đƣợc so sánh, liên hệ đối tƣợng với truyện ngắn Việt Nam giai đoạn trƣớc Bên cạnh đó, phƣơng pháp loại hình đƣợc vận dụng chƣơng mở đầu luận án nhằm phân chia đối tƣợng nghiên cứu thành kiểu, loại với tiêu chí nhận diện cụ thể Phƣơng pháp giúp cho luận án, chƣơng tiếp theo, nhìn nhận phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại truyện ngắn giai đoạn tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ nhƣ tổng thể với nhiều nhóm đối tƣợng đƣợc phân loại khảo sát cách độc lập tƣơng đối, vừa thống nhất, vừa đa dạng Các thao tác khoa học cụ thể đƣợc vận dụng luận án nhƣ sau Thao tác thống kê, phân loại, hệ thống hoá nhằm nhận diện nhóm đối tƣợng khảo sát đặc điểm chúng nhƣ kiểu truyện, kiểu tình huống, kết cấu, nhân vật Thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nhằm đƣa nhận định khoa học, minh chứng đối tƣợng khảo sát, từ đánh giá, lý giải kết luận thu đƣợc Thao tác so sánh thao tác khoa học quan trọng để nhìn nhận đối tƣợng nghiên cứu liên hệ, tƣơng quan, đối sánh, soi rọi từ nhiều góc độ, qua tƣơng đồng khác biệt truyện ngắn kiểu khác nhau, tác giả khác nhau… Sự vận động thể loại so với giai đoạn trƣớc biến chuyển bên thân đối tƣợng giai đoạn này, nhờ thế, đƣợc làm rõ Đóng góp luận án Luận án cơng trình khoa học áp dụng lý thuyết tự học thi pháp học vào việc nghiên cứu thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Tuy có số cơng trình theo hƣớng nghiên cứu này, nhƣng với phạm vi nghiên cứu rộng lớn hƣớng triển khai mình, luận án cơng trình khảo sát đối tƣợng để đến nhận định, tổng kết khái quát đặc điểm thi pháp, vận động thành tựu truyện ngắn Việt Nam bốn mƣơi năm qua Vì thế, luận án khơng góp phần làm sáng tỏ vấn đề có tính lý luận thể loại, mà khảo sát gắn với quan điểm việc phân kỳ tổng kết văn học sử Cùng với cơng trình nghiên cứu tổng quan thể loại khác tiểu thuyết, thơ , luận án góp phần đƣa hình dung khái quát chặng đƣờng bốn mƣơi năm vận động phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đƣơng đại Luận án cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy học tập ngành Văn học trƣờng Đại học, Cao đẳng, cho độc giả quan tâm văn học Việt Nam sau 1975 Cấu trúc luận án Luận án bao gồm Mở đầu, Nội dung, Kết luận Tài liệu tham khảo Nội dung đƣợc chia thành bốn chƣơng - Chƣơng 1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 113 Nhiều tác giả 2012, Tiếp nhận văn học nghệ thuật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 114 Phạm Phú Phong 2005, “Thái Bá Lợi với tiểu thuyết viết chiến tranh sau năm 1975”, Truy cập ngày 03/03/2008 115 Huỳnh Nhƣ Phƣơng 1991, “Văn xuôi năm 80 vấn đề dân chủ hóa văn học”, Tạp chí Văn học 4, 116 Pôxpêlốp Chủ biên 1985, Dẫn luận nghiên cứu văn học, T II, NXB Giáo dục, Hà Nội 117 Lê Hồ Quang 2012, “Cảm hứng truyện ngắn Lê Minh Khuê”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 3, 118 Saussure F 1973, Giáo trình Ngơn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 119 Shoyo T 2013, Chân tủy tiểu thuyết, Trần Hải Yến dịch giới thiệu, NXB Thế giới, Hà Nội 120 Trần Đình Sử 1987, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hà 121 Trần Đình Sử 2000, Lý luận phê bình văn học, NXB Giáo dục, Nội Hà Nội 122 Trần Đình Sử 2001, Văn học thời gian, NXB Văn học, Hà Nội 123 Trần Đình Sử Chủ biên 2004, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 124 Trần Đình Sử Chủ biên 2008, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 174 125 Trần Đăng Suyền 2002, Nhà văn thực đời sống cá tính sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 126 Nguyễn Bá Thành 2006, Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 127 Phạm Xuân Thạch 2005, “Tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại, suy nghĩ từ tác phẩm mang chủ đề lịch sử”, Truy cập ngày 3/3/2008 128 Phạm Xuân Thạch 2013, “Văn Việt - qua quyển”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học, nghệ thuật 9, 129 Phạm Xuân Thạch 2014, Sự khởi sinh tính đại - Trần thuật Việt Nam ba thập niên đầu kỷ XX, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 130 Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà 131 Bùi Việt Thắng 2000, Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết Nội thực tiễn thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 132 Bùi Việt Thắng 2005, Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 133 Phạm Thị Thật 2009, Truyện ngắn Pháp cuối kỷ XX – số vấn đề lý thuyết thực tiễn sáng tác, NXB Giáo dục, Hà Nội 134 Đoàn Cầm Thi 2004, “Chiến tranh, tình yêu, dục vọng văn học Việt Nam đƣơng đại”, Truy cập ngày03/03/2008 135 Nguyễn Huy Thiệp 2005, Giăng lưới bắt chim, NXB Hội Nhà văn - Cơng ty Văn hóa Đơng A, Hà Nội 136 Nguyễn Quang Thiều Chủ biên 2000, Tác giả nói tác phẩm, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 137 Xuân Thiều 2005, Tiếng nói cảm xúc, NXB Phụ nữ, Hà Nội 175 138 Lƣu Khánh Thơ 2005, “Từ quan niệm thơ đến lý luận tiểu thuyết - Bƣớc tiến đƣờng đại hóa văn học dân tộc” Tạp chí Nghiên cứu văn học 4, 139 Bích Thu 1996, “Những thành tựu truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học 9, 140 Bích Thu 1998, Theo dòng văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 141 Bích Thu 1999, “Những dấu hiệu đổi văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống mơ típ chủ đề”, Tạp chí Văn học 01, 142 Bích Thu 2008, “Yếu tố trữ tình truyện ngắn Lƣu Quang Vũ”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 9, 143 Lý Hoài Thu 2006, Đồng cảm sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 144 Phan Ngọc Thu 2008, “Thái Bá Lợi trình đổi bút pháp sáng tạo”, http // Truy cập ngày 20/5/2014 145 Đỗ Lai Thúy 2011, Phê bình văn học, vật lưỡng thê ấy, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 146 Hỏa Diệu Thúy 2010, Truyện ngắn đại Việt Nam 1945 - 1975, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 147 Lê Hƣơng Thủy 2006, “Truyện ngắn sau 1975 - số đổi thi pháp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 11, 148 Lê Hƣơng Thủy 2013, Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 - nhìn từ góc độ thể loại, Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội 149 Todorov T 2004, Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 150 Lê Ngọc Trà 2005, Lý luận văn học, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 176 151 Ngọc Trai 1987, “Sự khám phá ngƣời Việt Nam qua truyện ngắn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội 10, 152 Phạm Thị Ngọc Trâm 2002, “Về tƣợng mƣợn truyện cổ dân gian truyện ngắn từ sau năm 1975”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật 6, 153 Bùi Thanh Truyền 2006, “Yếu tố kỳ ảo văn xuôi đƣơng đại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội 154 Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội - Khoa Ngữ văn - Bộ môn Văn học nƣớc 2013, Văn học hậu đại - Lý thuyết thực tiễn, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 155 Trƣờng Đại học Vinh - Khoa Ngữ văn 2012, Tiểu thuyết truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến nay, NXB Đại học Vinh, Nghệ An 156 Lê Dục Tú 2007, “Thể loại truyện ngắn đời sống văn học đƣơng đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 2, 157 Lê Dục Tú 2012, “Đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn đƣơng đại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 158 Lê Dục Tú 2012, “Truyện ngắn đƣơng đại đề tài chiến tranh - đổi tƣ thể loại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 159 Nguyễn Thanh Tú 2009, Văn học người lính, NXB Văn học, Hà 160 Trịnh Thu Tuyết 1999, “Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây Nội dựng nhân vật truyện ngắn”, Tạp chí Văn học 1, 161 Dƣơng Tƣờng 2010, Chỉ chích chòe, NXB Hội Nhà văn, Hà 162 Phùng Văn Tửu 1996, “Một phƣơng diện truyện ngắn”, Tạp chí Nội Văn học 2, 177 163 Dƣơng Phƣơng Vinh 2005, “Đỗ Hồng Diệu Bóng đè ngày giơng bão”, Truy cập ngày 7/6/2014 164 Vƣgốtxki L X 1995, Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 165 Xô-skin 1962, Vận dụng thể truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội 166 Zohar I E 2014, Lý thuyết đa hệ thống nghiên cứu văn hóa, văn chương, Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch, NXB Thế giới, Hà Nội Tiếng Anh 167 Neuage T 1997, Influence of the World Wide Web on literature, Masters thesis, University of South Australia, Truy cập ngày 18/10/2010 Tiếng Pháp 168 Aron P., Saint – Jacques D., Viala A 2004, Le dictionaire du litéraire, Deuxième édition revue et augmentée, Quadrige/ PUF, Paris 169 Grojnowski D 1993, Lire la nouvelle, Dunod, Paris 170 Jauss H R 1978, Pour une esthétique de la réception, traduit de l’ Allemand par Claude Maillard, Gallimard, Paris 171 Montalbetti C 2003, Le personnage, GF Corpus, Paris 172 Piegay - Gros N., 2002, Le lecteur, GF Corpus, Paris 173 Souriau E 1990, Vocabulaire d’esthétique, Press universitaires de France, Paris 178 PHỤ LỤC Bảng 1 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập Truyện ngắn hay Việt Nam thời kỳ đổi mới, tập NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 7/30 ≈ 24% 13/30 ≈ 43% 10/30 ≈ 33% Chiếc thuyền xa Một lần đối chứng Thanh minh trời sáng Tiếng dội từ rừng đƣớc Dƣới đáy vực Ngƣời bào chế thuốc Bên gốc bàng Lãng tử Quãng vắng giảm đau Tiếng khóc tiếng hát Trang viết bão Lên ruồi Ngƣời kể chuyện thuê Gặp lại Đạo tƣởng Ảnh đen trắng Tình buồn Gió heo may Nghĩa địa xóm Chùa Những ngƣời đàn bà Quyền khơng điên Con mèo Foujita Tự truyện Lá quốc thƣ Hai ông cháu ngƣời chủ xƣa Bụi cỏ đƣờng làng Sự tích ngày đẹp trời 179 Con mèo Tƣớng hƣu Muối rừng 180 Bảng 2 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập 33 truyện ngắn chọn lọc 1945 – 1975 NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1976 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 3/33 ≈ 9% 18/33 ≈ 55% 12/33 ≈ 36% Ngƣời kháng chiến Một lần tới thủ đô Mầm sống Đôi mắt Kỷ niệm ngƣời xa Đêm hồng Mảnh trăng cuối rừng Mùa cá bột Những đò danh dự Quê hƣơng Khác trƣớc Con chị Lộc Mùa lạc Ngƣời tị nạn Lặng lẽ Sa Pa Tiếng nói Rẻo cao Anh Keng Mùa nấm tràm Vợ nhặt Một chuyện vui Ngƣời cầm súng Chuyện bên bờ sông Vàm Cỏ Ngƣời thợ chữa đồng hồ Chuyện xóm tơi đƣờng hầm số Ông Bồng Về làng Thƣ nhà 181 Chiếc cán búa Ngƣời tù binh da đen Cái lạt Bức thƣ làng Mực Con trâu bạc 182 Bảng 3 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Như gió Nguyễn Huy Thiệp NXB Văn học, Hà Nội, 1995 Từ, tổ hợp từ Ngữ Tâm hồn mẹ Mệnh đề, câu Những học nông Chảy sơng thơn Tƣớng hƣu Sang sơng Khơng có vua Cún Truyện tình kể Chút thống Xn Hƣơng đêm mƣa Huyền thoại phố Vàng lửa phƣờng Muối rừng Kiếm sắc Con gái thủy thần Đời mà vui Giọt máu Thƣơng nhớ đồng quê Mƣa Chăn trâu cắt cỏ Những ngƣời thợ xẻ Thƣơng cho đời bạc Phẩm tiết Hạc vừa bay vừa kêu thảng Nguyễn Thị Lộ Khơng khóc California Trƣơng Chi Thiên văn 183 Mƣa Nhã Nam Tội ác trừng phạt Những gió Hua Tát 184 Bảng 4 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Màu xanh man trá Lê Minh Khuê NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2005 Từ, tổ hợp từ Ngữ Mệnh đề, câu Mong manh Câu chuyện tác thành Mờ mờ nhân ảnh Ronan Keating Thành phố nhà cao Qua vƣờn đến trƣờng Đầu máy nƣớc Vƣờn xa Đùa cho vui Ngọn lửa Bánh khoái miền Trung Số phận may rủi Hai bờ Xứ lạ Nƣớc cỏ xanh Trò chơi cờ bạc Lƣng chừng trời Màu xanh man trá Quà biển 185 Bảng 5 Khảo sát kiểu tình tập Truyện ngắn Việt Nam kỷ XX giai đoạn 1976 - 2000, tập 29 NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2002 Kiểu tình STT Tên truyện Nhận thức Hành động Tâm trạng Hoa cho ngày cƣới X Mùa hoa cải bên sông X Ngƣời đàn bà tóc trắng X Hai ngƣời đàn bà xóm Trại X Hồi ức làng Che X Ốc mƣợn hồn X Ngƣời hùng trƣờng làng X Sau mùa trăng X Ngải đắng núi X 10 Khơng nhan sắc 11 Có đêm nhƣ 12 Ngƣời lùn truyện cổ Grim 13 Tiên bay trời X 14 Sinh vào đêm trăng sáng X 15 Chiếc bình đựng ký ức X X X X Tổng số, tỉ lệ 20% 186 33% 47% MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 LÝ DO CHọN Đề TÀI ĐốI TƢợNG VÀ PHạM VI NGHIÊN CứU MụC ĐÍCH VÀ NHIệM Vụ NGHIÊN CứU PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CứU ĐÓNG GÓP MớI CủA LUậN ÁN 10 CấU TRÚC CủA LUậN ÁN 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 11 Nghiên cứu lý luận truyện ngắn 11 Nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 17 Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 21 Nghiên cứu thành tựu phong cách tác giả, nhóm tác giả tiêu biểu 22 Nghiên cứu thành tựu đổi nghệ thuật truyện ngắn 25 Nghiên cứu tương tác truyện ngắn với thể loại khác văn học Việt Nam sau 1975 28 Tiếp cận tác phẩm truyện ngắn cụ thể 29 CÁC KIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 34 Các kiểu truyện tiếp tục khuynh hƣớng vận động trƣớc năm 1975 .36 Các kiểu truyện mang khuynh hƣớng đƣơng đại 38 CHƢƠNG 2 TÌNH HUỐNG VÀ KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 TÌNH HUỐNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 Sự chuyển biến nghệ thuật xây dựng tình 45 Các kiểu tình .48 Tình nhận thức 48 Tình hành động 51 Tình tâm trạng 54 KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 58 Các phƣơng thức kết cấu 61 Kết cấu theo lôgic nhân 62 Kết cấu đa tầng 69 Kết cấu lắp ghép 71 Kết cấu liên hoàn 75 187 Các thành tố bổ trợ kết cấu 77 Nhan đề 77 Mở đầu 82 Đoạn kết 84 CHƢƠNG 3 NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 90 CÁC KIỂU NHÂN VẬT CHỦ ĐẠO 91 Nhân vật tƣ tƣởng 93 Nhân vật tính cách – số phận 98 Nhân vật tự chủ 98 Nhân vật bi kịch 102 Nhân vật tha hóa 109 CÁC PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT .114 Khắc họa chân dung – ngoại hình, hành động nhân vật .115 Phân tích tâm lý nhân vật 116 Sáng tạo chi tiết nghệ thuật 121 CHƢƠNG 4 NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 .129 NGÔN NGỮ GẦN GŨI VỚI NGÔN NGỮ ĐỜI SỐNG THÔNG TỤC 129 Trên phƣơng diện từ ngữ .130 Trên phƣơng diện cú pháp 138 TÍNH CHẤT GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG NGƠN NGỮ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ thơ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ kịch 149 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ báo chí 153 KẾT LUẬN 159 DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .163 TÀI LIỆU THAM KHẢO 164 PHỤ LỤC……………………………………………………………………… 179 188 ... nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát... nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN... tạo nên nhìn khái qt đối tƣợng nghiên cứu từ góc độ thể loại Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Bên cạnh cơng trình nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại ,
Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 31/03/2015, 1426 . XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _________________ HOÀNG DĨ ĐÌNH (HUANG YITING NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ . NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ Chuyên ngành Lý luận ngôn ngữ Mã số 62 22 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC . trúc văn bản tự sự qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1995 2 003, Nguyễn Thị Thu Thủy với Luận án Tiến sĩ Ngữ văn về đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 iểm - Xem thêm -Xem thêm Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trên tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ, Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trên tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ, , CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT, 1 Tổng quan những thành quả nghiên cứu về Ngôn ngữ trần thuật., 2 Quan niệm về "trần thuật" và "ngôn ngữ trần thuật", 3 Quan niệm về "người trần thuật" và phân loại "người trần thuật", 4 Quan niệm về "điểm nhìn" và phân loại "điểm nhìn", 5 Quan niệm về Thời gian và các yếu tố liên quan, CHƯƠNG 2. NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ, 2 Người trần thuật với cấp bậc trần thuật và trong quan hệ với truyện, 3 Người trần thuật với mức độ được nhận biết trong truyện, 4 Người trần thuật trong quan hệ với tác giả tiềm ẩn, 2 Mối quan hệ giữa các yếu tố của điểm nhìn, 3 Mối quan hệ giữa điểm nhìn và nhân xưng, 4 Các phương thức làm thay đổi điểm nhìn, CHƯƠNG 4. THỜI GIAN TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ, 2 Tính chất thời gian “một chiều”, 3 Tính chất thời gian “đa chiều”, 4 Các phương thức biểu hiện thời gian trong văn bản, TÀI LIỆU THAM KHẢO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Trần Quốc Tuấn Nam Định đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Nguyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục lục Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề........................................................................................ 3 Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975................................................................................. 3 Những bài nghiên cứu về tác giả.................................................... 7 Những bài viết về tác phẩm............................................................ 8 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu........................................................ 9 nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 9 Đối tượng nghiên cứu.................................................................... 9 4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 10 5. Đóng góp của luận văn.......................................................................... 10 6. Cấu trúc của luận văn............................................................................ 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội........................................................................ 12 Tình hình đất nước sau chiến tranh...............................................12 Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội....................................................................................... 13 Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc............................................................. 14 2. Tình hình phát triển của văn xuôi......................................................... 15 3. Diện mạo của truyện ngắn.................................................................... 19 Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người......................................................................................................... 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng.............................35 Thành tựu của truyện ngắn.......................................................... 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975..................... ........... 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh.......................................................... 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư..................... 51 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985..... 62 Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư...... 63 Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng....................................... 65 Sự trở lại của cảm hứng bi kịch............................................... ... 69 cảm hứng phê phán........................................................................71 Cảm hứng nhân văn.......................................................................72 Chương III Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện.................................................................75 Khái niệm và vai trò của cốt truyện..............................................75 Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975....................................................................................................76 Các đặc điểm kết cấu cốt truyện................................................. 80 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985............ 87 Các kiểu nhân vật mới ............................................................. 89 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật................................................................................................. 96 3. Nghệ thuật trần thuật...........................................................................103 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật............................................ 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật..................................... 107 Phần kết luận.............................................................................. ........ 110 Tài liệu tham khảo ............................................................................ .. 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. 2. Lịch sử vấn đề. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975. Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006, tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét Từ 1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường Vương Trí Nhàn ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng nhiên, trong truyện ngắn và cả truyện vừa thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985. Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997 cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức. Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn “Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến “Văn học Việt Nam hiện đại Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001. Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới. Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999 Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường. Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường “Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000. Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996 cho rằng trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Tác giả Nguyễn Văn Long “Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006 khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để có các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Bên cạnh đó sự thay đổi vai kể, cách đưa truyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một thời gian duy nhất là những nét mới trong nghệ thuật biểu hiện. Tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật mới để đáp ứng xu thế của thời đại. Nhà văn Ma Văn Kháng lại rất chú ý đến ngôn ngữ của truyện ngắn. Theo ông, đó là thứ ngôn ngữ vừa dung dị, vừa ma quái thêm, nó sử dụng đến sức mạnh tổng hợp của câu chữ “Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992. Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt cả thế kỷ XX Bùi Việt Thắng “Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2000. 2. 2. Những bài nghiên cứu về tác giả Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Ma Văn Kháng. Bởi trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản ngăn Lã Nguyễn, “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật”, Tạp chí văn học số 2-1989. Tuy nhiên các tác giả Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng lại chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết. Với truyện ngắn, bên cạnh Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Minh Châu - người mở đường tinh anh và tài hoa - còn phải kể đến nhiều cây bút khác như Thái Bá Lợi, Nhật Tuấn, Xuân Thiều, Trung Trung Đỉnh, Bùi Hiển, Dương Thu Hương, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long, Lê Minh Khuê... Những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất nhiều. Đặc biệt đáng chú ý là các ý kiến đông đảo của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Tôn Phương Lan, Huỳnh Như Phương, Tô Hoài, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành Nghị, Trần Đình Sử, Trần Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Thiếu Mai, Bích Thu, Vương Trí Nhàn... Hầu hết các ý kiến chỉ dừng lại ở mức độ phân tích đánh giá sự thành công của từng tác giả. ở giai đoạn đầu, có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều nhau về cùng một tác giả, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều thừa nhận những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trên hành trình đổi mới xong trong số đó vẫn còn ý kiến tỏ ra nghi ngại. Nhận xét một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, nhà văn Bùi Hiển băn khoăn về việc tác giả đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn Nhiều tác giả, “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu”, Văn nghệ 1985 số 27 và 28. Tác giả Hà Xuân Trường thì cho rằng ông chỉ thành công một nửa. Hay trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong những truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của người đời có ý kiến cho rằng đã làm xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường của con người, dẫu đó là những mẫu hình tiêu cực trong đời sống chúng ta Bích Thu, “Truyện ngắn Dương Thu Hương. Tạp chí Văn học . số 2. 1983 nhưng lại có ý kiến ủng hộ cách viết này dù cho ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả thậm chí là có phần ác quá. Song ta đã chấp nhận phong cách này, thì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa vời Vương Trí Nhàn trong “Văn học 1975-1985- Tác phẩm và dư luận”, Nxb hội nhà văn, 1997. Đúng là ở chặng đầu của hành trình đổi mới, các tác giả của văn xuôi nói chung và các cây bút viết truyện ngắn nói riêng mới chỉ khoan những mũi thăm dò đầu tiên trên những vùng đất mới. Có mũi thăm dò thành công nhưng cũng không ít thất bại. Song những nỗ lực của họ đã được ghi nhận. Vì chính họ đã góp phần chuẩn bị để tạo ra một vụ mùa lớn của thể loại ở giai đoạn sau. Những bài viết về tác phẩm Trong khoảng 10 năm từ 1975 đến 1985 số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ. ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn. Có thể kể đến các tập truyện của các tác giả Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành 1983, Bến quê 1985; Xuân Thiều với Gió từ miền cát 1985; Dương Thu Hương với Những bông bần li 1981; Ma Văn Kháng với Ngày đẹp trời 1986; Lê Minh Khuê với Đoạn kết 1983, Một chiều xa thành phố 1986…và các tập truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội Có một đêm như thế 1981, Thời gian 1985… Số lượng các bài viết này rất nhiều, đăng tải cả trên báo trung ương và báo địa phương dưới dạng thức điểm sách hoặc phê bình. Loại bài viết này phần lớn đều nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận về nội dung hoặc nghệ thuật, về những phương diện đổi mới của từng truyện ngắn hay tập truyện ngắn cụ thể. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của thể loại cũng như của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Chung quy lại, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các cuốn sách, các bài báo, các ý kiến trong các cuộc trao đổi, thảo luận, các cuộc hội thảo và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi thấy nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề. Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo sơ bộ, hoặc là những nhận định khái quát hay đi vào từng khía cạnh cụ thể của thể loại. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới. Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển của văn xuôi nói chung. 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi sâu tìm hiểu diện mạo và những đổi mới bước đầu của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức biểu hiện. Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau chiến tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 19751985. Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi. Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong khoảng 10 năm này rất nhiều, luận văn sẽ không thể bao quát được hết. Để khoanh vùng phạm vi khảo sát, luận văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 thống kê, nghiên cứu những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong một giai đoạn khá phong phú và phức tạp này. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích, tổng hợp 5. Đóng góp của luận văn Luận văn cố gắng đi sâu làm nổi bật những dấu hiệu đổi mới của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện. Hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu truyện ngắn ở những giai đoạn sau. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương III Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 19751985. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985 1. Bối cảnh lịch sử xã hội Tình hình đất nước sau chiến tranh Với thắng lợi lịch sử mùa xuân năm 1975, đất nước đã thu về một mối, Nam - Bắc một nhà. Khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về một nền tự do, độc lập phải trải qua ngót nửa thế kỷ chiến đấu kiên cường đã trở thành hiện thực. Chiến tranh khốc liệt đã qua đi, đất nước hào hứng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ngay sau niềm vui chiến thắng, cả dân tộc phải đối mặt với hàng loạt khó khăn chồng chất. Đó là thời kỳ chúng ta lâm vào khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội. Cơ chế quản lý cũ bộc lộ nhiều bất cập đòi hỏi phải có sự đổi mới. Đất nước hoà bình nhưng cuộc sống lại vận hành một cách khó nhọc, nặng nề. ở miền Bắc, những cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân Mỹ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài. Gần như toàn bộ các thành phố thị xã đều bị đánh phá. Thậm chí có thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp đều bị đánh phá, nhiều khu bị đánh tới mức huỷ diệt. Với miền Bắc, dù chiến tranh đã chấm dứt sau hiệp đinh Pari năm 1973 nhưng do bị tàn phá nặng nề nên nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế đến giữa năm 1976 mới căn bản hoàn thành. ở miền Nam, việc tiếp quản các vùng mới giải phóng được tiến hành hết sức khẩn trương. Việc thành lập chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Chính quyền cách mạng kêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 gọi những người từng làm việc trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền ra trình diện đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ ngoan cố chống đối. Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội cũng được tiến hành khẩn trương. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được sử dụng kịp thời vào công tác thông tin tuyên truyền cổ động. Những hoạt động trên ở hai miền Nam Bắc bước đầu đã ổn định tình hình khinh tế xã hội của đất nước ngay sau chiến tranh. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiệm vụ giành lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã hoàn thành. Nhưng về thể chế chính trị, chúng ta vẫn chưa có một nhà nước chung. Do đó yêu cầu hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được đặt ra một cách bức thiết. Ngày 25- 4- 1976, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội chung được tiến hành trong cả nước. Ngay sau đó Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp đầu tiên tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước trong thời kỳ mới. Từ đây, nhiệm vụ tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vữc chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam lần thứ IV nêu rõ Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã được cụ thể hoá trong hai kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 1980 và 1981 - 1985. Việc thực hiện những kế hoạch này đạt được những kết quả nhất định tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đời sống của đại bộ phận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 nhân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều lao động chưa có việc làm. Nhiều nhu cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về vật chất và văn hoá chưa được đảm bảo. Mặt khác các hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một sổ cán bộ chưa bị trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. Thực trạng kinh tế xã hội đó đã làm lay động dữ dội mọi suy nghĩ, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân. Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hoà bình yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành được tự do và độc lập [25]. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Sau 30 năm chiến tranh liên miên, khi đất nước vừa được độc lập tự do, chúng ta lại tiếp tục đối mặt với những cuộc xâm lược mới. Từ tháng 5- 1975 đến 1977, tập đoàn Pôn Pốt- Iêng Xari đổ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Chúng dần dần mở rộng thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Tuy nhiên, hành động của chúng đã bị quân dân ta ngăn chặn và làm thất bại năm 1978. Không những thế, chiến thắng biên giới Tây Nam của ta đã tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng Campuchia giành thắng lợi. ở biên giới phía Bắc, Trung Quốc đã có những hành động làm tổn hại đến tình cảm của hai nước như cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới, rút chuyên gia… Nghiêm trọng hơn, tháng 2 năm 1975, Trung Quốc đã mở cuộc tấn công nước ta dọc theo biên giới từ Móng cái đến Lai Châu. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, quân dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu buộc Trung Quốc phải rút quân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Chấm dứt hai cuộc xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam, nước ta đã bảo vệ toàn vẹn lành thổ và khôi phục, giữ vững tình đoàn kết hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng. Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước 10 năm sau chiến tranh có nhiều chuyển biến phức tạp. Điều này có tác động không nhỏ đến đời sống của văn học nước nhà. 2. Tình hình phát triển của văn xuôi Sự phát triển của một nền văn học nói chung, văn xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. ở đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này. Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không bình thường của chiến tranh sang cuộc sống bình thường, hàng ngày của nhân dân. Tuy nhiên, văn học lại không sang trang cùng lúc với lịch sử. Nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật, những cảm hứng chủ đạo trong chiến tranh cho đến khoảng đầu những năm 1980. Điều này đúng với lý luận của Mác ý thức thường chậm hơn so với thực tại xã hội. Sự chạy theo quán tính này của văn học dẫn đến tình trạng mất độc giả. Sau chiến tranh, các nhà văn có điều kiện, có nhiều thời gian hơn để viết thì bỗng dưng cái mối quan hệ vốn rất thắm thiết máu thịt giữa văn học và công chúng, giữa sáng tác và người đọc lạnh nhạt hẳn đi, hụt hẫng hẳn đi. Người đọc quay lưng lại với những sáng tác hiện tại. Đó cũng chính là khoảng thời gian mà Nguyên Ngọc gọi là khoảng chân không trong văn học. ở đó, âm không truyền đi được. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Nền văn học chững lại, không ít người viết lâm vào tình trạng hoang mang, bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. Nhưng dần dần họ cũng tìm ra nguyên nhân cuộc sống thay đổi rất nhiều mà văn học vẫn giữ nguyên bộ quần áo cũ. Đời sống hoà bình nhưng hoá ra lại phức tạp hơn trong chiến tranh rất nhiều. Bởi trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại trong một mối quan hệ duy nhất sống - chết. Tất cả những quan hệ đời thường, riêng tư bị đẩy lại phía sau, thậm chí bị triệt tiêu để hướng đến mục tiêu duy nhất chiến đấu để chiến thắng. Chính ngọn lửa chiến tranh đã thiêu cháy những sự nhỏ nhen, tính toán, bon chen của cuộc sống thường nhật. Nếu trong chiến tranh trăm người như một, đồng tâm nhất trí cho sự nghiệp chung thì hoà bình lại khác. Con người trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với những lo toan cá nhân, những mất mát trong chiến tranh, những khó khăn của cuộc sống kinh tế, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa quyền lợi riêng và quyền lợi chung không hoàn toàn thống nhất như trước đây. Do đó tất cả đều cần một sự thay đổi mới để có một cách nhìn, một cách nghĩ mới với tinh thần trách nhiệm cao để đáp ứng được những điều kiện mà thực tế đặt ra. Trong những điều kiện lịch sử ấy, văn xuôi đầu năm 80 cũng đã trải qua những trăn trở cho một cuộc chuyển mình. Tuy nhiên sự vận động ấy còn do yêu cầu nội tại của chính nền văn học. Đó là sự phát triển của tư duy nghệ thuật ở một trình độ mới. Sự vận động của văn học giai đoạn này trước hết là ở khuynh hướng sáng tác, ở quan niệm về hiện thực và con người, ở phương thức tiếp cận và miêu tả thực tại. Đầu những năm 80 trong văn xuôi đã hình thành nhiều khuynh hướng khác nhau. Khuynh hướng sử thi, tiếp tục mạch chảy của nó trong sáng tác của nhiều nhà văn, đặc biệt ở đội ngũ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến. Nhiều cây bút văn xuôi hướng tới việc tạo dựng bức tranh toàn cảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
truyện ngắn việt nam sau 1975